Tên di sản : Đình làng Chí Cường
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di sản :
Di tích kiến trúc nghệ thuật
Sô quyết định : Số 4109/QĐ-UBND
Giới thiệu
Đình Chí Cường nằm trên khuôn viên thửa đất số 1684, diện tích 2.709m2 quay về hướng Tây trên một khu đất bằng phẳng, cao và thoáng đãng. Phía Đông giáp thửa đất số 1543, 1544, 1545; phía Tây giáp khu vực II thửa số 1684a, phía Nam giáp thửa số 1681, 1682, 1683; phía Bắc giáp thửa 1547, 1549. Đình nằm ngay trung tâm làng Chí Cường, vì thế rất thuận lợi trong việc sinh hoạt của bà con nhân dân địa phương.
Về quy mô cấu trúc:
Di tích lịch sử văn hoá và kiến trúc nghệ thuật đình Chí Cường nằm trên một khu đất bằng phẳng, quay về hướng Tây. Tổng thể ngôi đình được bố trí hài hoà. Phía ngoài là cổng đình (3 cửa ra vào), cửa lớn ở giữa, hai cửa nhỏ hai bên được xây theo kiểu tứ trụ, hai cửa giữa có kích thước dày 0,40m x 0,40m; cao 4,25m, trên lồng đèn đắp hai con nghê, cổng giữa rộng 4,5m, nối trụ biểu chính với hai cửa phụ là hai bức tường hai bên đắp hai con ngựa. Cổng phụ cao 2,5m, rộng 1,2m, nối hai cổng phụ với hai biểu trụ nhỏ có hai bức tường cao 1,5m, rộng 1,8m đắp đôi voi chầu. Trên đầu trụ biểu nhỏ đắp hình búp sen. Phía trong cổng là sân được lát bằng gạch bát, chạy dài theo chiều ngang của ngôi đình. Sân đình có diện tích chiều dài 20m, rộng 18m, qua sân đình là nhà tiền tế gồm 5 gian, chiều dài 16,5m, chiều rộng 4,2m, nối giữa nhà tiên tế và tiền đường là một máng nước bằng đá rộng 0,80m. Nhà tiền đường có diện tích 16,5m x 9,2m, phần hậu cung nối liền với nhà tiền đường ở phía sau. Hậu cung 3 gian có diện tích 8,6m x 4m. Như vậy, đây là một khu di tích được bố trí cấu trúc với quy mô rộng lớn, hài hoà giữa không gian và kết cấu của ngôi đình.
Nhà tiền tế:
Nhà tiền tế gồm 5 gian bằng gỗ mới xây dựng sau để tăng thêm mục đích sử dụng trong những ngày tế lễ. Nhà tiền tế được nối liền với nhà tiền đường, diện tích 16m x 4,2m, kết cấu bằng 6 vì kèo gỗ, hai mái lợp ngói mũi và ngói liệt, nền lát gạch bát. Kết cấu vì kèo theo kiểu giá chiêng, kẻ suốt, trốn cột cái. Không chạm trổ, tất cả được bào trơn đóng bén.
Nhà tiền đường:
Về kiến trúc.
Kiến trúc đình gồm 5 gian được kết cấu đỡ bằng 6 vì, các vì liên kết với nhau bằng các hàng xà (Thượng, hạ và xà thế hoành). Đình được xây đăng đối nhau về kích thước. Gian thứ nhất bằng gian thứ 5, kích thước 2,85m x 9,2m. Gian 2 và gian 3, kích thước 3,05m x 9,2m. Gian giữa, kích thước 3,5m x 9,2m.
Đình hai mái lợp ngói liệt và ngói mũi, các hoành tải đều được làm bằng gỗ lim, nền nhà được lát bằng gạch bát.
Về bố cục kết cấu kiến trúc được tạo thành bởi 3 phần chính: 2 vì kèo của gian giữa, hai vì của 2 gian bên và 2 vì gian chái. Tất cả các kết cấu vì kèo ở đây đều đăng đối và giống nhau kiểu liên kết.
Vì 1,6 từ xà lòng lên thượng lương, đỡ 4 hoành tải và thượng lương là bức cốn mê chạm nạ phù. Nạ phù tại đình được chạm theo phong cách dân gian, trán thô, mũi nhô, mắt lồi. Đôi mi nạ phù được thể hiện hoạ tiết chạm nổi hình chữ Y, đây cũng là biểu tượng mô phỏng đội sừng nạ phù; tại phù kiểu tại bê dựng ngược, đồng thời làm guốc đỡ cho hoành tải số 1 của mái tiền và hậu; đôi chân phù giang rộng chạm vẩy rồng đỡ các hoành tải số 2, 3 mái tiền và hậu; râu nạ phù mô phỏng vấn mây cuốn trải suốt phần hạ bức cốn mê; miệng nạ phù mở rộng hàm, chữ thọ dưới hàm răng trên.
Xà lòng và đầu dư được trang trí mô tuýp hoa văn hoa lá liên kết với nhau.
Cốn nách tiến hậu của hai vì 1 và 6 không thể hiện mà chỉ được đỡ bằng kẻ vòng cung, có hệ thống lá dong đỡ đầu các hoành tải. Đầu bẩy được chạm khắc hoạ tiết hoa lá cách điệu.
Vì 2, 5 được thể hiện theo kiểu chồng rường, kẻ bẩy. Xà lòng được hai đầu dư hoạ tiết đầu rồng, thể hiện kỹ thuật chạm lộng rất công phu. Đặt trên xà lòng là hai trụ tròn giãn cách 2 đôi con rường được chạm khắc hoạ tiết lân hoá. Hai trụ đỡ câu đầu, câu đầu cũng được chạm khắc lân hoá. Đặt trên câu đầu là rường suốt đỡ guốc đỡ đệm cho đầu thượng lương, Đường suốt cũng được chạm khắc công phu.
Từ xà thế hoành xuống xà nách của vì 2 và 5 được thể hiện bằng 4 con rường, trên vì đầu rường được thể hiện lân hoá. Bức xuân mai giáp cột cái được thể hiện hoạ tiết hoa văn lá cúc cách điệu liên kết với nhau. Hai vì, ở các đầu con rường, xà nách và đầu dư cũng thể hiện theo tiền vì, riêng bức xuân mai được thể hiện bằng hoạ tiết chữ thọ nằm trong khuôn tranh kỷ hà.
Đầu bẩy dưới được thể hiện hoa văn lá cúc cách điệu, phần giáp cột được thể hiện hoa văn đạo lửa. Vì 3 và 4 là hai vì chủ đạo trong đình, đây là hai vị của gian giữa, chính vì vậy được thể hiện rất cầu kỳ.
Kết cấu từ xà lòng lên thượng lương cũng như kết cấu hoạ tiết hoa văn ở vì 2, 5. Điều đặc biệt là các bức cốn ở hai vì 3 và 4 đều được chạm rất công phu.
Mặt trước bức cốn chạm khắc đề tài quân thân, rồng được thể hiện rõ, có đầu, thân, chân, đuôi xoắn ở mảng trên, bên dưới là hoạ tiết mô tả lân và ngư đang quẩn cùng vân mây và hoa lá, thể hiện đề tài vua hiền tôi giỏi.
Mặt sau bức cốn chạm đề tài mang ý nghĩa bình dân, phần trên cao chỉ có đầu rồng, bên dưới là các cảnh cá bơi, chim bay, nai chạy cùng mây bay, hoa, lá...đặc biệt đầu xà nách và đầu dư được khắc nạ tễu cách điệu đang cười. Đề tài này thể hiện cảnh thái bình thịnh trị đương thời.
Đầu bẩy của 2 vì đều được thể hiện long ẩn vận bằng kỹ thuật chạm bong tinh xảo.
Tóm lại: Toàn bộ hệ thống kết cấu của nhà tiền đường như vì kèo, hoành, hệ thống các cột... đều được liên kết một cách hợp lý và hài hoà, giữa các vì và hệ thống giúp cho ngôi đình luôn vững chắc. Ở đây tuân thủ theo một quy tắc đăng đối giữa các vì với nhau.
Bằng kỹ thuật chạm khắc điêu luyện để thể hiện những mảng hoạ tiết hoa văn trang trí mang ý nghĩa triết lý về xã hội, về vũ trụ của những người nghệ nhân xưa trong ngôi đình Chí Cường đã để lại cho cộng đồng cư dân Chí Cường một di sản văn hoá quý giá cho hôm nay và cho cả mai sau.
Nhà Hậu cung:
Nhà hậu cung được dựng phía sau của nhà tiền đường gồm 3 gian. Trước kia, hậu cung được xây dựng và trang trí cầu kỳ hơn, nhưng do sự biến thiên của lịch sử, hậu cung đã bị phá huỷ, vào những năm gần đây (năm 2003) nhân dân địa phương đã quyên góp xây dựng lại 3 gian. Phần vì kèo được làm đơn giản, xung quanh được xây tường bít đốc. Phía trên cũng lợp ngói liệt và ngói vẩy. Hậu cung được dùng làm nơi thờ Thần hoàng làng, đặt ở chính giữa là ban thờ, phía trên là long ngai và một số đồ thờ khác. Tuy không được trang trí cầu kỳ như nhà tiền đường, nhưng hậu cung và tiền đường đã liên kết với nhau tạo nên sự tôn nghiêm và trang trọng của ngôi đình.
Hiện vật trong di tích:
Đình Chí Cường còn lưu giữ được nhiều hiện vật có giá trị:
Kiệu: 03 (cổ); Bát hương sứ: 06 (mới); Bát hương đồng: 02 (mới); Bát hương sứ: 01 (cổ); Cây nến đồng: 04 (mới); Lư hương đồng: 01 (mới); Hạc đồng: 02 (mới); Mâm bồng: 01 (mới); Chuông đồng: 01 (mới); Chiêng đồng: 02 (mới); Ngai thờ: 01 (mới); Bài vị: 01 (mới); Mâm bồng gỗ: 04 (mới); Cây đèn gỗ: 06 (mới); Đài gỗ: 10 (mới); Ống hương gỗ: 8 (mới); Bức y môn vải: 04 (mới); Lộng: 04 (mới) 01 giá chúc văn (cũ); Hương án: 01.v.v...và nhiều hiện vật khác rất có giá trị.